Thời gian đọc cho trẻ em: 11 phút
Chú Hans đi làm thuê đã được bảy năm, trước lúc thôi việc trở về quê chú được chủ thưởng cho một khối vàng to bằng cái đầu của chú. Hans rút trong túi ra một chiếc khăn và bọc khối vàng đó lại, vác lên vai rồi lên đường về quê mẹ. Hanxơ đang lững thững đi, chân nọ nối gót chân kia thì gặp một người dáng nhanh nhẹn, đang hớn hở cưỡi một con ngựa phóng tới. Hanxơ nói bô bô:
– Chà, chẳng có gì thú vị bằng cưỡi ngựa; ngồi trên mình ngựa khác gì ngồi trên ghế nệm, chẳng vấp phải đá, lại đỡ hại giầy mà đi băng băng chẳng khó khăn gì cả.

Người cưỡi ngựa nghe nói thế, liền dừng ngựa lại và hỏi:
– Này anh Hanns, sao anh lại đi bộ?
– Đó chẳng qua là sự bất đắc dĩ. Tôi phải vác cái của nợ này mang về nhà. Nó bằng vàng thật đấy, nhưng tôi không sao thẳng cổ mà đi được, cứ phải cúi đầu vì khối vàng nặng trĩu cả vai. Người cưỡi ngựa gạ:
– Này, anh có biết không, hay là chúng ta đổi cho nhau: anh lấy ngựa của tôi và đưa cho tôi cái cục nợ của anh. Hans đáp:
– Thế thì còn gì bằng, nhưng tôi nói cho anh biết là nó nặng đấy, vác nặng đừng có trách nhé. Người kia xuống ngựa, cầm lấy vàng và giúp Hans lên ngựa, trao tay Hans dây cương và dặn:
– Nếu muốn ngựa chạy thật nhanh thì anh phải tắc lưỡi và la: „Hốp, hốp.“

Ngồi trên ngựa cưỡi đi băng băng Hans lấy làm khoái chí lắm. Đi được một lát bỗng Hans nảy ra ý nghĩ, mình phải cho ngựa chạy nhanh hơn nữa. Chú liền tắc lưỡi kêu: „Hốp, hốp!“ để thúc ngựa chạy. Ngựa tế nước đại. Hans chưa kịp định thần thì đã bị văng ra khỏi ngựa, té nhào xuống mương bên đường. May có một bác nông dân đang dắt bò đi tới, bác túm ngay lấy dây cương kéo giữ ngựa lại, nếu không thì không biết ngựa phóng đến bao xa nữa. Hans sờ nắn chân tay thấy hãy còn nên lồm cồm bò dậy.

Chú buồn bã nói với bác nông dân:
– Cái chuyện cưỡi ngựa này cũng chẳng hay ho gì, vớ được con ngựa già tồi tệ như thế này có bữa nó quăng mình xuống đất ngã gãy cổ chứ không chơi. Từ nay trở đi không bao giờ ta cưỡi ngựa nữa. Tôi thấy con bò của bác lại hay: Ta cứ việc ung dung đi theo nó, đã thế ngày nào cũng có sữa, bơ, pho mát mà ăn. Ước gì tôi có được một con bò như của bác. Bác nông dân nói:
– Nếu chú thích lấy bò hơn thì tôi đổi bò cho chú để lấy ngựa. Hans mừng cuống lên, đồng ý ngay. Bác nông dân nhảy lên ngựa phóng đi. Hans ung dung đánh bò đi, trong lòng hớn hở về việc đổi chác có hời, chú nghĩ, giờ mà có bánh mì nhỉ – mà bánh mì thì tụi mình có bao giờ thiếu – thì tha hồ mà ăn với bơ và pho mát. Lúc nào khát thì chỉ việc vắt sữa bò là có cái uống, thử hỏi xem mình còn cần gì hơn nữa.

Hans dừng chân ở một quán hàng bên đường, trong lúc cao hứng chú lôi ra chén sạch nhẵn cả suất bánh trưa lẫn suất bánh bữa tối, còn vài Heller chú dốc nốt ra mua nửa ly bia vại. Ăn xong chú lại lên đường tiếp tục. Chú đánh bò đi thẳng về phía quê mẹ. Càng gần trưa trời càng oi bức hơn, mà Hans lại đang đi trên thảo nguyên, chắc phải đi chừng một tiếng nữa mới đi qua được thảo nguyên, lúc này Hans thấy nóng, nóng đến khô cứng cả lưỡi. Chú nghĩ bụng, giờ thì nó được việc đấy: chỉ việc vắt là có sữa uống cho đỡ khát. Chú buộc bò vào thân một cây đã chết khô, không có thùng, chú bèn lấy mũ da để hứng, nhưng loay hoay mãi mà chẳng được giọt sữa nào cả.

Chú lúng ta lúng túng như thợ vụng mất kim làm cho con bò bồn chồn, điên tiết nó đá thốc vào đầu, chú loạng choạng rồi ngã lăn ra bất tỉnh một lúc lâu. Khi đi qua làng cuối cùng để về quê mẹ. Hans thấy một người thợ mài dao kéo đang quay đá mài, vừa quay vừa hát:
Tôi mài kéo, đá quay vo vo. Tôi cho áo bay theo chiều gió. Hans dừng chân đứng xem mài kéo. Hans lên tiếng chào và hỏi:
– Vừa quay đá mài vừa ca hát vui vẻ thế này chắc chắn sống sung sướng lắm nhỉ? Bác thợ mài dao kéo đáp:
– Chứ còn gì nữa. Nghề tôi làm hái ra tiền. Một người thợ mài dao kéo giỏi lúc nào cũng rủng rỉnh trong túi, sờ vào túi nào cũng thấy tiền là tiền. Này, thế nhưng chú mua ở đâu ra con ngỗng đẹp thế?
– Ngỗng này tôi có mua đâu, tôi đổi heo đấy.
– Thế heo ở đâu ra?
– Heo do đổi bò mà có.
– Thế còn bò cái này ở đâu ra?
– Bò cái này do tôi đổi một con ngựa mà có.
– Thế ngựa ở đâu ra?
– Tôi đổi một khối vàng to bằng đầu tôi để lấy con ngựa.
– Thế vàng ở đâu ra?
– Chà, vàng ấy là tiền công bảy năm đi làm của tôi đấy.
– Kể ra chú cũng khéo xoay xở đấy.

Nhưng giá trong túi lúc nào cũng loảng xoảng toàn tiền là tiền thì mới là sung sướng. Hans hỏi:
– Vậy tôi phải làm gì để được như thế?
– Muốn thế chú phải làm nghề mài dao kéo như tôi. Đồ nghề thực ra chẳng có gì lớn hơn ngoài hòn đá mài, còn những thứ lặt vặt khác thì dễ kiếm thôi. Tôi còn một hòn đá mài đây, nó hơi mẻ một chút. Nhưng thôi, chú cứ đưa tôi con ngỗng là đủ, tôi không đòi hỏi gì khác nữa. Chú mày có đồng ý thế không? Hans đáp:
– Sao bác lại hỏi thế nhỉ? Trong túi lúc nào cũng rủng rỉnh tiền là sướng nhất trần gian rồi. Vậy tôi còn ao ước gì nữa. Hans đưa ngay ngỗng cho bác thợ mài dao kéo để lấy đá mài. Người thợ mài dao kéo nhặt ở ngay gần đấy một hòn đá khá nặng – đó chỉ là một hòn đá thường nằm bên vệ đường đi – đưa thêm cho Hans và nói:
– Đây tôi thêm cho chú hòn đá này nữa, chú tha hồ mà mài, thậm chí còn làm đe được nữa, đinh cong để lên đó mà giọt thì thẳng ngay lập tức. Này, mang đi nhưng giữ cho cẩn thận nhé. Mắt sáng hẳn lên, lòng mừng rỡ. Hans quẩy đá lên vai, vừa đi vừa nói một mình:
– Mình được bà mụ tốt đỡ lúc sinh nên cứ ước sao được vậy, cứ như đứa trẻ sinh vào sáng chủ nhật (sinh vào ngày lành tháng tốt vậy). Vì dậy đi từ lúc trời mới hửng sáng nên Hans thấy đã thấm mệt, vì có bao nhiêu lương khô thì khi đổi được bò mừng quá lôi ra ăn một mạch hết cả, giờ đây đã mệt lại cộng thêm cơn đói, cố gắng lắm Hans mới nhấc nổi chân lên, bước một bước lại dừng chân nghỉ, đã thế lại còn đá nặng đè trên vai, làm cho khổ sở thêm.

Giờ đây Hans không sao cưỡng nổi ý nghĩ mong sao thoát khỏi cảnh bụng không lại còn khổ công vác nặng. Chậm như sên chú cố lết đến bên bờ giếng làng để nghỉ, làm hớp nước giếng lạnh cho tỉnh người. Sợ hỏng mất đá mài nên Hans nhè nhẹ đặt đá lên bờ giếng nhưng ngay chỗ mình đứng. Rồi Hans mới từ từ ngồi xuống để vực nước uống, ngờ đâu vô ý chú hích tay vào đá, cả hai hòn đá rơi tõm ngay xuống đáy giếng. Nhìn đá rơi xuống giếng Hans mừng quá nhảy cẫng lên, ngồi sụp xuống cám ơn trời phật rủ lòng thương cứu giúp chú thoát khỏi những chướng ngại vật khó chịu, nặng nề ấy. Hans reo lên:
– Sung sướng như ta chắc ở trần gian không có ai.

Trút hết được gánh nặng, lòng mừng thênh thênh, chú vừa đi vừa nhảy giỡn dọc đường cho tới tận khi về tới nhà mẹ.

Ngữ cảnh
Diễn giải
Ngôn ngữ
Câu chuyện „Chú Hans sung sướng“ của Anh em nhà Grimm là một câu chuyện cổ tích hài hước và mang tính giáo dục về lòng thỏa mãn và sự chấp nhận. Nhân vật chính, Hans, có một loạt các cuộc trao đổi từ khối vàng to đến các vật dụng khác nhau, cuối cùng chỉ còn lại hai hòn đá mài và cuối cùng không còn gì khi đá rơi xuống giếng. Dù mất hết tài sản từ ban đầu, Hans vẫn cảm thấy sung sướng vì đã thoát khỏi „gánh nặng“.
Qua câu chuyện, Anh em nhà Grimm truyền tải thông điệp về việc tìm kiếm hạnh phúc trong sự đơn giản và giải phóng bản thân khỏi những vật chất không cần thiết. Câu chuyện cũng nêu bật sự hài lòng với những gì mình có và tìm thấy niềm vui trong những điều đơn giản nhất. Qua đó, câu chuyện khuyến khích người đọc suy ngẫm về giá trị thực sự của hạnh phúc và cách mà sự thỏa mãn nội tâm quan trọng hơn những vật chất bề ngoài.
Câu chuyện „Chú Hans sung sướng“ của anh em nhà Grimm chứa đựng nhiều bài học sâu sắc và có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau.
Dưới đây là một số cách diễn giải phổ biến
Hạnh phúc là tự do khỏi gánh nặng vật chất: Qua hành trình của Hans, câu chuyện nhấn mạnh rằng của cải vật chất không phải lúc nào cũng đem lại hạnh phúc. Hans dần dần từ bỏ những thứ có giá trị như vàng, ngựa, bò, heo, cho đến khi không còn gì, nhưng cuối cùng lại cảm thấy nhẹ nhõm và hạnh phúc hơn bao giờ hết.
Sự ngây thơ và lòng tốt: Hans thể hiện sự ngây thơ và chân thành trong suốt câu chuyện. Mặc dù liên tục bị lừa đổi những thứ có giá trị cao hơn cho những thứ kém giá trị, anh vẫn luôn cảm thấy hài lòng với những gì mình có. Điều này cho thấy rằng đôi khi, thái độ sống tích cực và hài lòng với hiện tại có thể mang lại hạnh phúc.
Ngụ ngôn về lòng tham và sự hài lòng: Truyện cũng là một ngụ ngôn về lòng tham và sự hài lòng. Những người tiếp xúc với Hans luôn tìm cách kiếm lợi từ anh, trong khi Hans đơn giản chỉ tìm kiếm sự hài lòng và nhẹ nhõm trong cuộc sống của mình. Điều này cho thấy lòng tham chỉ làm tăng thêm gánh nặng, trong khi hài lòng với những gì mình có thể mang lại niềm vui thực sự.
Thành công thực sự là biết đủ: Một thông điệp khác từ câu chuyện là thành công không được đo bằng của cải vật chất mà là sự hài lòng và tinh thần vui vẻ. Hans, chẳng có gì trong tay khi về đến nhà, nhưng lại cảm thấy vui sướng và thành công theo cách riêng của mình.
Thông qua các diễn giải này, câu chuyện khuyến khích người đọc suy ngẫm về giá trị thực sự của hạnh phúc và thành công, đồng thời nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của sự hài lòng trong cuộc sống.
„Chú Hans sung sướng“ là một câu chuyện cổ tích của Anh em nhà Grimm, nổi tiếng với cách kể chuyện đơn giản và nhiều tầng ý nghĩa, đặc biệt trong bối cảnh ngôn ngữ học. Dưới đây là một phân tích ngôn ngữ học tập trung vào các khía cạnh như cấu trúc ngữ nghĩa, phong cách tường thuật và các yếu tố ngữ dụng:
Cấu trúc ngữ nghĩa: Truyện nhấn mạnh vào chuỗi các sự kiện trao đổi liên tiếp mà Hans thực hiện, mỗi lần trao đổi lại trở thành một điểm văn hóa quan trọng trong việc đánh giá giá trị và hạnh phúc. Ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện các khái niệm trừu tượng như „sung sướng“, „gánh nặng“, „đổi chác có hời“, mang ý nghĩa linh hoạt, phụ thuộc vào hoàn cảnh và quan điểm của nhân vật.
Phong cách tường thuật: Truyện sử dụng lối kể chuyện truyền thống, với người dẫn chuyện trung lập. Điều này tạo điều kiện cho độc giả tự đánh giá hành động và quyết định của Hans. Hội thoại giữa các nhân vật được sử dụng để tiến triển cốt truyện và để diễn giải rõ hơn tâm lý của Hans, đặc biệt khi so sánh sự hài lòng và giá trị của các món đồ anh trao đổi.
Yếu tố ngữ dụng: Truyện chứa nhiều câu cảm thán và diễn đạt hội thoại mang tính kinh nghiệm và thực dụng của nhân vật Hans, cho thấy cách tiếp cận trực tiếp và giản dị đối với cuộc sống. Hans thường đưa ra các phán đoán ngây thơ hoặc đơn giản về sự thịnh vượng và hạnh phúc, phản ánh sự khác biệt giữa ý nghĩa bề mặt của sự vật và ý nghĩa sâu xa hơn mà chúng đại diện.
Bài học luân lý: Thông qua ngôn ngữ, câu chuyện ngụ ý sự hài lòng với những gì mình có là điều quan trọng hơn là của cải vật chất. Đây là một thông điệp phổ biến trong nhiều truyện cổ tích và được truyền tải một cách châm biếm qua các cuộc trao đổi của Hans. Câu chuyện cũng phản ánh quan niệm về „số phận“ hay „số mệnh“ của nhân vật qua cái cách Hans luôn cảm thấy mình may mắn, dù tình huống khách quan có thể không như vậy.
Hình thức diễn đạt: Ngôn ngữ đơn giản, lặp đi lặp lại trong cách Hans kể về các giao dịch của mình thể hiện sự ngây thơ và bản tính vô tư của anh. Điều này cũng góp phần tạo nên nhịp điệu cho câu chuyện, giúp dễ dàng ghi nhớ và truyền miệng.
Truyện „Chú Hans sung sướng“ minh chứng cho khả năng của ngôn ngữ trong việc truyền tải những thông điệp luân lý mạnh mẽ thông qua hình thức kể chuyện đơn giản và gần gũi, một đặc điểm nổi bật trong truyện cổ tích của Anh em nhà Grimm.
Thông tin phân tích khoa học
Chỉ số | Giá trị |
---|---|
Con số | KHM 83 |
Aarne-Thompson-Uther Chỉ mục | ATU Typ 1415 |
Bản dịch | DE, EN, DA, ES, FR, PT, FI, HU, IT, JA, NL, PL, RU, TR, VI, ZH |
Chỉ số khả năng đọc của Björnsson | 15.9 |
Flesch-Reading-Ease Chỉ mục | 97.2 |
Flesch–Kincaid Grade-Level | 3.6 |
Gunning Fog Chỉ mục | 6.4 |
Coleman – Liau Chỉ mục | 3.2 |
SMOG Chỉ mục | 3.9 |
Chỉ số khả năng đọc tự động | 1.8 |
Số lượng ký tự | 6.464 |
Số lượng chữ cái | 4.733 |
Số lượng Câu | 92 |
Số lượng từ | 1.463 |
Số từ trung bình cho mỗi câu | 15,90 |
Các từ có hơn 6 chữ cái | 0 |
Phần trăm các từ dài | 0% |
Tổng số Âm tiết | 1.616 |
Số tiết trung bình trên mỗi từ | 1,10 |
Các từ có ba Âm tiết | 1 |
Tỷ lệ phần trăm từ có ba âm tiết | 0.1% |